Về văn hóa:
Con người Quy Hậu rất thật thà, cần cù lao động, siêng năng, sáng tạo, sống chân thật, mộc mạc, ít phô trương, ghét xua nịnh, ba hoa, lừa đảo. Trong cuộc sống thì “tình làng nghĩa xóm” được coi trọng. Ngày nay, khi đất nước phát triển, nhân dân cả nước cùng nhau thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết, xây dựng cuộc sống văn hóa văn minh, hiện đại, xây dựng quê hương giàu đẹp", thì những phẩm chất tốt đẹp của người dân làng Quy lại được nhân lên, tình người trở nên gắn bó hơn.
Như ta đã biết, trước cách mạng, làng có đủ: đình, chùa, nghè, miếu, có cả bộ đồ lễ nghi phục vụ các nghi lễ, có bộ gia lễ, có đội nhạc, đội âm công "họ hiếu” phục vụ đám tang,… Giờ đây, một số miếu thờ đã được tu sửa, trông khang trang hơn trước. Các nghi lễ cũng vẫn giữ nguyên.
Thời xưa hằng năm, cứ đến lễ Kì Phước (vào giữa tháng 6 âm lịch ), làng tổ chức lễ hội 3 ngày: ngày đầu, rước sắc vua ban, ngày thứ hai rước các linh vị khai khẩn và linh vị.
"Lục tộc" vào đình làng để tế lễ, có năm làng rước cả đoàn hát bội về chầu, ngày sau cùng nghinh thỉnh các linh vị trở lại như cũ.
Ngoài ra các ngày lễ tiết khác như: muôn rằm tứ quý, đặc biệt là ngày Đông chí được các bậc bô lão, các vị chức sắc kì cựu chăm lo chu đáo, ngay cả lễ tế " Xuân thủ" cúng đầu năm tại các miếu ở An Sinh cũng được tổ chức. Làng có họ hiếu, có đội nhạc, có đội hát Kiều sắm đủ các vai từ Kim Trọng, Thúy Kiều, Vương ông... Hàng năm có biểu diễn cho dân làng xem. Đội nhạc có đủ sáu bộ nhạc cụ: Trống Kèn, đàn, sáo…
Trong cuộc kháng chiến ác liệt, lâu dài nên dần dần đội nhạc mất đi, nay làng ta chưa khôi phục lại được. Hoạt động của câu lạc bộ, văn nghệ, thể dục dưỡng sinh, thơ ca hò vè, bóng đá, bóng chuyển,... đang được khôi phục và phát triển. Một xóm được xây dựng một đội âm công để phục vụ tang lễ theo quy chế văn hóa mới được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Trước cách mạng tháng 8/1945, làng ta có đội ca kịch cách mạng thường xuyên biểu diễn các vở kịch: Trưng Trắc, Trưng Nhị, Nguyễn Trãi, Phi Khanh... Họ vừa ca kịch vừa diễn thuyết, tuyên truyền cách mạng ở nhiều nơi trong huyện. Đặc biệt là buổi biểu diễn tại sân vận động Cỗ Liễu. Trước đêm khởi nghĩa giành chính quyền (LS Huyện Đảng Bộ Lệ Thủy).
Đời trước, hai Ngài họ Nguyễn và họ Mai tước vua ban "Công hầu" sau đó thấy đề “Quan Viên Tử ” (con quan) chưa thấy ông bà nào làm quan to ở chốn Triều Đình cả. Sau này, theo gia phả họ Nguyễn Văn mới có ông Nguyễn Văn Tính làm đến chức đội trưởng, hiệu trung tá, tước Quy Hầu,Thị Hùng Biện. Trước cách mạng tháng Tám làng ta có ông Nghè Đỗ, Nghè Lê, ngoài ra còn các chức sắc như Bang Tá, Cửu Phẩm, Thất Phẩm, Hội đồng... kể cũng nhiều.
Về kinh tế
Làng ta chủ yếu nghề Nông, do đất chật người đông, bản chất cần cù chịu khó, một nắng hai sương đi khắp các vùng, các làng trong huyện để thuê ruộng "xâm canh" hơn phần nữa diện tích trong đồng "nghề làm ruộng" chắc không có làng nào sánh kịp, “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa “ cồn cao, vực sâu đến mấy hể dân làng Quy Hậu lấn làm thì ở đó vẩn "bằng phẳng", lúa màu đã làm thì bời bời xanh tốt (xem bài làng Quy Hậu của ông Lê Khuyên).
Các nghề thủ công cùng phát triển mạnh mẽ như nghề trồng bông dệt vải, vải Quy Hậu bền chắc, nếu được nhuộm nâu thì "chó cắn không rách" hợp túi tiền nên khắp nơi ai cũng ưa chuộng, nghề rừng, nghề mộc cũng nổi tiếng một vùng, ông bộ Kề với ông Tổng Giãng đã hợp sức chế tạo ra chiếc xe đạp nước đầu tiên, được đưa đi triển lãm trong huyện, ngày nay do máy bơm hoặc thủy lợi tưới tiêu nên xe đạp nước không còn nữa (chắc con cháu ta khó hình dung được xe đạp nước là thế nào?).
Sau năm 1930, lại phát triến thêm nghề nón lá, nghề nón tuy thu nhập thấp nhưng cả làng ai cũng làm, trung bình mỗi ngày cả làng làm ra hơn 500 chiếc nón lá, thu nhập vào hàng chục triệu đồng. (Xin đọc tiếp phần nón lá làng Quy để hiểu rõ).
Theo báo cáo tổng kết của làng năm 2000 cũng đã phát triển trên 25 ngành nghề khác nhau làm tăng thu nhập hàng năm từ 10% - 15% so với tổng thu nhập năm trước. Do đó, đời sống của người dân đã được cải thiện nâng lên rỏ rệt, đã xóa được đói giảm được nghèo, nhiều hộ có thu nhập hàng nhăm từ 20-30 triệu đồng, gần 100% gia đình có xe đạp, gần 90% gia đình có xe gắn máy, nhà nào cũng có tivi, tủ lạnh..
Ngày trước, do cách sông trở đò (chưa có cầu) dân làng vùng trên đi chợ tréo, phải nghỉ lại chờ đò sang sông, tiện việc họ bán khoai sắn hoa quả..lâu ngày hóa ra “chợ đò”. Ngày nay có sẵn cầu, có cầu đường thuận tiện cho đi lại nhưng chợ đò vẫn phát triển thành chợ Cầu như ngày nay. Chợ Cầu tuy nhỏ nhưng có đủ hàng hóa phục vụ đời sống cho dân làng.
Nói đến chợ Cầu làm tôi nhớ đến "chợ Tréo", tôi hỏi anh Hoàng Đình Luyện vì sao lại gọi là chợ Tréo? Anh cho biết: Ngày xưa chợ Tréo thuộc làng Quy Hậu quản lý nhưng chợ lại ở giữa làng Cỗ Liễu nên mới gọi là chợ Tréo. Về sau, quan huyện cùng hương lý hai làng bàn bạc trao đổi cho nhau. Cỗ Liễu lấy chợ, Quy Hậu lấy ruộng giáp Cổ Liễu. Cợ ruộng này trước gọi là cợ ruộng biên liễu nay là cợ ruộng Đàng Nự mãi cho đến nay. Thế mới biết tổ tiên ta coi trọng ruộng đất quý hơn vàng bạc, có lẽ với truyền thống ấy nên đến nay làng ta vẫn đi cày cấy, thâm canh khắp các nơi trong huyện.
Anh Luyện cũng cho biết: Ngày trước đình làng Cỗ Liễu (vùng đất trước nhà anh Bàn, anh Đồng có vườn bông của Quy Hậu cho đến cuối những năm 1920 mới trở về Cổ Liễu). Bà Mai Thị Vẫn, một cô gái hái bông xin đẹp đã yêu một chàng trai Cỗ Liễu ngay từ buổi ấy (Quán cháo bà Vẫn - nuôi cán bộ cách mạng trong lịch sử huyện Đảng Bộ Lệ Thủy).
Để kết thúc phần này, xin lấy bài "Cáo Tổ" của cụ Lê Trung Hiếu đọc trong lễ Đông Chí năm 1990 làm kết thúc chuyện đời xưa của tổ tiên ta. Bài này có một số câu, chữ cần được tra cứu bổ sung dù sao đây cũng là chuyện kể công đức tổ tiên để lại cho con cháu cho đời
Cáo Tổ | |
Tổ tiên xưa vốn người giao chỉ Vào nơi đây là đất Châu Ô Thế kỉ XV chiến sự xô bồ Người xứ Bắc tràn vào lập nghiệp Các cụ xưa vai mang gói xách Đoàn có sáu người do ông Nguyễn dẩn đầu Đến đất này thống nhất cùng nhau Chọn lãnh địa định cư lập ấp Tổ tiên ta toan lo từ trước Ngàn đời sau con cháu mãi sinh sôi Rừng rú, đồi hoang, đầm phá bãi bồi Chiếm cứ khai canh gần năm trăm mẫu Đất hình chữ Quy mới đặt tên làng Quy Hậu Sáu họ một làng, lục tộc đồng hương Ngày tháng qua đi lớp lớp lớn lên Gần năm trăm năm tăng mấy lần bội số Từ một xóm chỉ gồm sáu hộ Nay một làng nhân khẩu hơn ba ngàn Giữa không gian bát ngát mênh mông Khoảng thời gian ấy biết bao kì tích. Đẵn gỗ, đào mương, đắp đê, cuốc đất Phở lác, chặt lùng mở lối khai canh Kể từ đầu, từ Tả Hữu Thanh Long Qua cho đến Mốc Cao, Bổn Ngoại Là công lao cha ông để lại Nay cháu con mới có ruộng cầy Hơn bốn trăm năm là mười bốn vạn mấy ngàn ngày Đã sinh hạ ra mười sáu đời con cháu | Lớp lớp tuôn ra mồ hôi và máu Đã thấm vào trong mảnh đất quê hương Đã làm nên một Quy Hậu kiên cường Có Đình cô có hai Nghè, hai Miếu. Có Đền Chùa lập ra Họ Hiếu Có dân cư, có Giáp, có Phường Có cụ Nghè đỗ khoa hội, khoa hương Quan võ tướng có ông Đề, ông Lãnh. Có kỉ vật chuông chùa ta đánh Tục truyền rằng:Tiếng vọng đến Đồng Nai Tổ tiên ta vốn bậc kì tài Đặt sơn cước cùng chăm lo địa phận Từ bến Nhà Muôi mà ra Cồn Rộng Từ khe Chài vào tận Động Nham Đất mênh mong, đồi núi cũng mênh mong Nay con cháu tha hồ hưởng thụ Giang sơn ấy là cửa nhà ta đó Có ngày xưa mới có ngày hôm nay Đắp bồi tô điểm sao đây Cho cam công trước cho đầy phước sau. Làng Quy Hậu là của dân QuyHậu Biết ơn xưa tiên tổ ông bà, Mỗi một người còn sống ở trong ta, Thề báo nghĩa bằng tấm.lòng trung hiếu. *** |
văn hóa, quy hậu, thật thà, cần cù, lao động, siêng năng, sáng tạo, mộc mạc, phô trương, ba hoa, lừa đảo, ngày nay, phát triển, nhân dân, thực hiện, đoàn kết, xây dựng, văn minh, hiện đại, quê hương, phẩm chất
Mã an toàn:
Ý kiến bạn đọc