Quy Hậu quê tôi bên dòng sông Kiến Giang hiền hòa, mát mẻ. Một làng quê nổi tiếng cần cù, thông minh, sáng tạo trong sản xuất, anh hùng trong chiến đấu bảo vệ quê hương.
Trước cách mạng tháng 8/1945, làng ta nổi tiếng là một làng giàu có, sông nước hữu tình, dân sống cần cù, thông minh, sáng tạo. Làng nằm bên hữu ngạn sông Kiến Giang, được sông Kiến tô điểm cho quê hương màu xanh mát rượi, giữa làng cũng có sông Ngô Giang từ Bàu Sen chảy về phụ nước cho sông Cái. Cả hai con sông uốn lượn quanh làng, điều hòa khí hậu cũng như giúp dân làng trong việc phát triển kinh tế.
Ngày xưa, làng ta mới ở hữu ngạn sông Ngô Giang tả ngạn là nơi rừng rậm thuộc đất Chiêm Thành - Thành của vua Chămpa, dần dần dân làng vượt sông sang thành làm rẫy sau sang làm nhà ở luôn trở thành "xóm rẫy". Lúc này, làng có ba xóm: xóm rậy, xóm hói, xóm rào và đã có vè "Xóm rẫy chống gậy qua làng, xóm rào ăn nói, xóm hói ăn mần”.
Thành Nhà Ngo ngày xưa là nơi đống đô của vua Chămpa, thường gọi là "Chiêm Thành". Thời ấy, vua chiêm thành là “Chế cũ”, là láng giềng của nước Đại Việt, thường đem quân đánh phá nước ta. Lúc đó nước ta có nàng công chúa, Chế Cũ muốn cưới làm vợ và hứa nhường, cúng đất Châu Ô, Châu Lí cho nước Đại Việt và không quấy phá nước ta nữa. Từ đó, Vua Chiêm Thành chuyển đất hai châu cho nước Đại Việt và vào Nam sinh sống.
Nói đến làng Quy Hậu không thể không nói đến bà con dân ở “Phường Trấm, An Sinh” và một số thôn khác ở 2 xã Văn Thủy, Trường Thủy. Vào những năm 20 của thế kỉ trước, một số dân làng đi làm rẫy ở Miền Tây, để tiện cho công việc làm rẫy, họ đã lập nhà, sinh sống trên đó thành từng phường, bản. Một số làng khác cũng có phường, có bản như phường Tréo (Cổ Liễu), phường Tiễu (Thượng Phong), kể
Con người Quy Hậu rất thật thà, cần cù lao động, siêng năng, sáng tạo, sống chân thật, mộc mạc, ít phô trương, ghét xua nịnh, ba hoa, lừa đảo. Trong cuộc sống thì “tình làng nghĩa xóm” được coi trọng. Ngày nay, khi đất nước phát triển, nhân dân cả nước cùng nhau thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết, xây dựng cuộc sống văn hóa văn minh, hiện đại, xây dựng quê hương giàu đẹp", thì những phẩm chất tốt đẹp của người dân làng Quy lại được nhân lên, tình người trở nên gắn bó hơn.
Làng ta cũng như hàng ngàn làng quê hương Việt Nam. Trước chưa có Đảng hơn chín mươi lăm phần trăm dân số nghèo khổ, hàng chục gia đình trong làng không có một tấc đất cắm dùi, quanh cày thuê cuốc mướn cho địa chủ, phú nông.
Ngày 27/3/1947, giặc Pháp trở lại xâm lược Quảng Bình mà chủ yếu là Đồng Hới.
Ngày 30/3/1941, giặc Pháp kéo đến Lệ Thủy bằng hai con đường từ Đồng Hới lên và từ Quảng Trị ra. Ngay từ buổi đầu chúng đã bị quân dân Lệ Thủy đánh trả quyết liệt (Xem lịch sử Đảng bộ Lệ Thủy).
Đất nước tạm thời chia làm hai miền, miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam thực hiện cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Ngày 20/7/1954 cùng với phong trào mở hội mừng chiến thắng của đất nước, tỉnh, huyện, làng ta chuẩn bị lễ hội đua thuyền truyền thống mừng Quốc Khánh, mừng quê hương giải phóng.
Quy Hậu làng ta qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ, sau đó tiếp chống chiến tranh biên giới phía Nam và phía Bắc. Làng ta có 87 liệt sỹ chưa kể liệt sỹ của làng ở các xã Văn Thủy, Trường Thủy, Mỹ Thủy. Các liệt sỹ vô danh xung phong Nam tiến từ năm 1946 mất tích như các anh Nguyễn Văn Đẩu,
Nón lá được nhập vào làng Quy Hậu chưa lâu khoảng 70-80 năm nay nhưng nó đã là nghề truyền thống.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đến nay đă hơn 20 năm, nền kinh tê của đất nước ngày càng phát triển, năm sau cao hơn năm trước.
Phần thứ bảy
QUY HẬU TRÊN HÀNH TRÌNH ĐI TỚI TƯƠNG LAI
Cách đây 20 năm về trước nhà văn Mai Kế Tấn có viết một bài ký sự về "Một làng không tiếng tăm". Tác giả đã đề cập một làng quê hương sống khiêm nhường bên bờ hữu ngạn sông Kiến Giang, đã âm thầm lặng lẽ, dẫm lên đạn bom địch ngẩng cao đầu mà đi tới tìm cách bứt phá những khó khăn để đóng góp sức người sức của cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp hơn.
“Viết về Bác đến hơi thở cuối cùng”
25 năm trước, ở thôn Quy Hậu (Liên Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) có người cựu chiến binh vì kính yêu, nhớ thương Bác Hồ mà lặng lẽ bắt tay vào viết những câu chuyện về Bác. Giờ đây ở tuổi 79, ông vẫn tâm niệm “sẽ viết về Bác đến hơi thở cuối cùng”.